Vũ Trọng Phụng ( 1912 - 1939 ) sinh tại Hà Nội, trong một gia đình nghèo. Cuộc đời của Vũ Trọng Phụng rất lận đận và nhiều gian truân, cuối đời ông mắc bệnh lao nhưng không có điều kiện chạy chữa. Ông mất khi sự nghiệp văn học đang còn ở giai đoạn phát triển cao nhất. Vũ Trọng Phụng đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, tiêu biểu là các phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936) và các tiểu thuyết: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê (1936), Lấy nhau vì tình (1937), Trúng số độc đắc (1938). Nhưng tiêu biểu nhất là " Số đỏ", cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của tác giả trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế kỉ XX. Dưới ngòi bút của Nguyễn Trọng Phụng chương nào cũng thú vị và hấp dẫn. Đặc biệt gây ấn tượng là đoạn trích" Hạnh phúc một tang gia" thuộc chương XV của tiểu thuyết "Số đỏ"
Tác giả đã đặt tên nhan đề rất lạ, gây cảm giác tò mò, chú ý cho người đọc và cũng thể hiện một nghịch ló nực cười: trong tang gia mà lại có hạnh phúc. Mâu thuẫn trào phúng cơ bản nằm ngay trong nhan đề. Mỗi thành viên trong gia đình đều cảm thấy sung sướng, thỏa mãn và thấy đây là một dịp hiếm có để mọi người thực hiện một ý đồ riêng. Bọn con cháu đều muốn cho cụ tổ chết để được sớm chia gia tài và làm những việc mình thích. Thật đúng là hạnh phúc của một gia đình vô phúc, niềm vui của những đứa con cháu bất hiếu nhưng lúc nào cũng tỏ ra đạo đức,văn minh.
Trong đoạn trích này, tác giả cũng dựng nên bối cảnh của một tang gia bối rối, chẳng những bối rối mà còn rất lo lắng và bận rộn. Nhưng nghịch lí lại tiếp tục được bộc lộ khi lo lắng, bận rộn không phải cho một đám ma mà là lo tổ chức cho chu đáo, linh đình một ngày vui, một đám hội. Như vậy, cách đặt tên tiêu đề vừa gây chú ý cho người đọc, vừa phản ánh đúng một sự thật mỉa mai, hài hước, tàn nhẫn.
Niềm hạnh phúc nhất của mọi người trong gia đình từ cái chết của cụ tổ là tờ di chúc đã trở thành hiện thực, con cháu được chia gia tài. Mọi người vừa vui vì có những khoản tiền kết xù, vừa có dịp để phô trương cái " hiếu nghĩa" giả tạo của mình.
Tất cả con cháu từ cụ cố Hồng cho đến vợ chồng Văn Minh, cô Tuyết, cậu Tân,... và cả những người bạn tham gia đưa tang đều cảm thấy rất hãnh diện và hạnh phúc. Đây là dịp để họ phô trương những bộ trang phục hợp mốt thời thượng, để thiên hạ trầm trồ thán phục và để ra oai lẫn nhau. Cụ cố Hồng mơ màng nghĩ đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen: "con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!", còn ông Văn Minh thì có dịp để khoe một mốt váy áo đại tang mới trong cái đám ma to nhất Hà thành, cô Tuyết thì có dịp khoe thân thể nõn nà của mình, mặc một bộ áo ngây thơ để chứng tỏ mình còn trong trắng.
Bằng nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua những chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi của lối sống văn minh rởm đời. Đám ma được dựng lên hết sự to tát, long trọng có thể nói ở Hà thành trước đây chưa từng có. Một đám ma được tiến hành theo lối Tả, lối Tàu, lối Tây,.. có đầy đủ những lớp người thượng lưu ăn mặc đẹp đẽ, sang trọng.
Thực chất nút sau sự to tát, danh giá, long trọng ấy là những sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lí háo danh, háo thắng,... của một lớp người trong xã hội thượng lưu lúc bấy giờ. Điều này được thể hiện qua những chi tiết đưa tang thật hổ lốn đến buồn cười, khiến tác giả phải đưa ra một câu văn nhận xét thể hiện sự trào lộng, mỉa mai đến cực độ: " thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu,...!"
Trong đoạn trích này, tác giả cũng dựng nên bối cảnh của một tang gia bối rối, chẳng những bối rối mà còn rất lo lắng và bận rộn. Nhưng nghịch lí lại tiếp tục được bộc lộ khi lo lắng, bận rộn không phải cho một đám ma mà là lo tổ chức cho chu đáo, linh đình một ngày vui, một đám hội. Như vậy, cách đặt tên tiêu đề vừa gây chú ý cho người đọc, vừa phản ánh đúng một sự thật mỉa mai, hài hước, tàn nhẫn.
Niềm hạnh phúc nhất của mọi người trong gia đình từ cái chết của cụ tổ là tờ di chúc đã trở thành hiện thực, con cháu được chia gia tài. Mọi người vừa vui vì có những khoản tiền kết xù, vừa có dịp để phô trương cái " hiếu nghĩa" giả tạo của mình.
Tất cả con cháu từ cụ cố Hồng cho đến vợ chồng Văn Minh, cô Tuyết, cậu Tân,... và cả những người bạn tham gia đưa tang đều cảm thấy rất hãnh diện và hạnh phúc. Đây là dịp để họ phô trương những bộ trang phục hợp mốt thời thượng, để thiên hạ trầm trồ thán phục và để ra oai lẫn nhau. Cụ cố Hồng mơ màng nghĩ đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen: "con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!", còn ông Văn Minh thì có dịp để khoe một mốt váy áo đại tang mới trong cái đám ma to nhất Hà thành, cô Tuyết thì có dịp khoe thân thể nõn nà của mình, mặc một bộ áo ngây thơ để chứng tỏ mình còn trong trắng.
Bằng nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua những chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi của lối sống văn minh rởm đời. Đám ma được dựng lên hết sự to tát, long trọng có thể nói ở Hà thành trước đây chưa từng có. Một đám ma được tiến hành theo lối Tả, lối Tàu, lối Tây,.. có đầy đủ những lớp người thượng lưu ăn mặc đẹp đẽ, sang trọng.
Thực chất nút sau sự to tát, danh giá, long trọng ấy là những sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lí háo danh, háo thắng,... của một lớp người trong xã hội thượng lưu lúc bấy giờ. Điều này được thể hiện qua những chi tiết đưa tang thật hổ lốn đến buồn cười, khiến tác giả phải đưa ra một câu văn nhận xét thể hiện sự trào lộng, mỉa mai đến cực độ: " thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu,...!"
Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm hoạ trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức loè loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.
Xuân tóc đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của của đám ma cụ tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của Báo gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố Hồng càng thêm sung sướng:" Ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi". Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân tóc đỏ cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.
Từ một tình huống trào phúng cơ bản, "Hạnh phúc của một tang gia" được tác giả triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau, tạo nên một màn hài kịch lớn, phong phú và biến hóa khôn lường gây nhiều thú vị cho người đọc. Một trong những thủ pháp quen thuộc được tác giả sử dụng là phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt nhưng cùng tồn tại trong một sự vật, một con người để từ đó làm bật lên tiếng cười châm biếm.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều thủ pháp cường điệu: nói ngược, nói mỉa mai,... sử dụng đan xen linh hoạt trong đoạn trích và đều mang lại hiệu quả tốt nhất định. Chẳng hạn, cái chết của cụ tổ khiến mọi người trong cái đại gia đình bất hiếu không ai giống ai. Đặc biệt, đám rước đưa ma được tổ chức nhố nhăng, lố bịch và nó trở thành cơ hội tốt để mọi người gặp gỡ, giao lưu, phô trương thanh thế và cười cợt, nói xấu, nói mỉa nhau,...
Qua đoạn trích " Hạnh phúc của một tang gia", Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của ông giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi chuyện đều như thật và hơn thật, ông chú ý đến các hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Qua đó cảnh đám ma hiện ra như một màn kịch sinh động , một bức biến họa khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng. Tác giả còn có con mắt tinh đời để nhìn thấy và miêu tả đúng cái nét riêng của từng nhân vật xuất hiện trong đoạn trích. Ngòi bút miêu tả của Vũ Trọng Phụng linh hoạt, biến hóa, giàu yếu tố hài hước gây cười và sắc sảo tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Vũ Trọng Phụng xứng đáng là một bậc thầy - một nhà văn hiện thực xuất sắc trong việc sử dụng nghệ thuật trào phúng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét