Nguyễn Công Trứ sinh 1778 mất 1858, tự
là Tồn Chất, biệt hiệu là Hi Văn. Ông xuất thân trong 1 gia đình nhà nho tại
làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Có thể nói từ nhỏ cho đến 1819,
ông sống vất vã cơ cực, nhưng đây cũng chính là khoảng thời gian mà Nguyễn Công
Trứ có cơ hội được tìm hiểu và học hỏi về thể loại ca trù ở làng Cổ Đạm, 1 làng
gần làng ông. Đây cũng chính là 1 yêu tố có ảnh hưởng rất lớn đến phong cách
thơ của Nguyễn Công Trứ. Thể loại ca trù hay hát ả đào là 1 thể loại mà xuất hiện
ở miền Bắc Việt Nam. Nó là sự kết hợp giữa thơ với nhạc, giữa đàn với phách , để
tạo nên những chất liệu mà có thể nói âm điệu của nó khá là đặc biệt. Nó phù hợp
với cách thể hiện con người tự do và
phóng túng. Mà phải chăng vì thế mà Nguyễn Công Trứ đến với thể loại này 1 cách
rất tự nhiên và đây cũng là 1 thể loại mà ông vận dụng rất thành công trong
sáng tác của mình.
Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” ra đời vào năm
1848 lúc ông về hưu. Và đểlựa chọn thể hiện cái phong cách cũng như cái tổng kết
về cuộc đời của mình, ông lựa chọn cho tác phẩm của mình đó là thể loại hát
nói. Thể loại hát nói là thể loại có vần luật tự do, phóng túng. Kết hợp giữa lục
bát, song nhất lục bát với kiểu nói lối của hát chèo. Thể loại này thích hợp với
việc thể hiện những con người tự do . Và
thông thường những nhà thơ thường mang trong mình tâm sự thì tìm đến thể loại
hát nói, như 1 nơi để kí hát tâm hồn của mình, Nguyễn Công Trứ cũng không ngoại
lệ. Bài thơ có âm điệu khá đặc biệt, lúc thì réo rắc lúc thì hào hứng để thể những
cái nét tính cánh của tác giả trong tác phẩm.
Vũ trụ nội mạc phi phận
sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào
lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham
tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay
ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng.
Có khi về Phủ doãn Thừa
Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất
ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây
trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng
từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh
một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất
ngưởng.
Đươc mất dương dương người
thái thượng,
Khen chê phoi phới ngọn
đông phong.
Khi ca, khi tưu, khi cắc,
khi tùng,
Không Phật, không Tiên,
không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng
vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo
sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng
như ông !
Trước
tiên ta tìm hiểu ý nghĩa của từ ngất ngưởng, “ngất ngưởng” trong từ điển tiếng Việt được giải thích theo nghĩa
đen là từ có nghĩa ngã nghiêng, không vững chắc. Tuy nhiên, trong bài thơ này,
chúng ta cần lưu ý từ “ngất ngưởng”
không biểu hiện tư thế ấy, mà nó biểu hiện “phong
cách sống” khác thường của tác giả.
Và 2 chữ ý cũng chính là cái từ cảm hứng cho bài thơ này. “Ngấ ngưởng” ở
đây, nó thể 1 cách sống, 1 thái độ của 1 con người vươn lên trên thế tục để được
sống là chính mình. Vậy thì Nguyễn Công Trứ có thái độ ngất ngưởng như thế nào,
ta vào 6 câu thơ đầu, Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng khi làm quan.
Vũ trụ nội mạc phi phận
sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào
lồng.
Đây
là 1 bài thơ được viết bằng chữ nôm, thế nhưng nó lại được mở đầu 1 câu chữ hán
trang trọng. “Dùng việc phủ định để khẳng
định, mọi việc trong trời đất này là của ta”. Vào câu thơ đầu tiên, Nguyễn
Công Trứ đã ý thức rất rõ cái tôi của bản thân cá nhân ông đối với nhân dân, đối
với đất nước. Như vậy, ông càng khẳng định chí làm trai hơn hẳn, khẳng định vai
trò của kẻ làm trai theo quan niệm phong kiến. Đây là 1 cái ý thức cái tôi cá
nhân, 1 cái ý thức rất đáng trân trọng của nhà Nho Nguyễn Công Trứ. Từ cái khẳng
định chí làm trai, ông đưa người đọc đi đến câu thơ tiếp theo
“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.”
Câu
thơ này khá độc đáo, bởi vì ông tự xưng tên mình “Hi Văn” và tự xưng tài “tài bộ”.
Cách xưng này chính là việc thể hiện bản lĩnh cá nhân của Nguyễn Công Trứ. Vì
trong thơ ca trung đại, dường như không có chỗ cho cái tôi cá nhân, dù có cái
tôi nhưng nó lại bị khuất sau cái ta, như trong thơ của Nguyễn Khuyến có câu “Bác đến chơi đây, ta với ta”. Về việc
Nguyễn Công Trứ dám xưng tên lại dám xưng tài, thì chắc chắn rằng ông là 1 người
có tài thật sự mới dám xưng lên như thế. Mà “đã vào lồng” ý nghĩa nói lên sự
trói buộc, ông cũng như bao người nhà Nho khác, học làm quan để đi thi, để khi
đỗ đạt rồi thì sẽ phải cống hiến cho đất nước. Nhưng đối với ông việc làm quan
là sự trói buộc, tuy thế mà ông lại có thể đem tài năng, công sức của mình để
phục vụ cho nhân dân, nước nhà.
Ở
2 câu thơ này cho ta thấy, Nguyễn Công Trứ khi vào quan trường lại không chịu
được 2 điều. Thứ nhất là ông không chấp nhận sự ngang hàng mà vươn hết lên trên
bằng cách dám xưng tên, xưng tài của mình. Thứ 2 là khi ông vào quan trường rồi
nhưng ông lại không nhập cuộc, ông không hoàn toàn hòa mình vào trong quan trường
ấy. Đây chính là lí do sẽ cho chúng ta thấy đằng sau 2 câu thơ này, mach thơ sẽ
thay đổi với hàng loat các câu thơ.
Khi Thủ khoa, khi Tham
tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay
ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng.
Có khi về Phủ doãn Thừa
Thiên.
Đến
với 4 câu thơ tiếp theo, có sự thay đổi cách ngắt nhịp, nghệ thuật liệt kê “Khi – Khi –Khi”. Có thể nói rằng 4 câu
thơ này như 1 bản tổng kết về cả cái quảng đời làm quan của Nguyễn Công Trứ. Ở
đây ông vừa khoe tài năng giải văn chương, tinh thao lược vừa khoe cái danh vị
của mình khi “Thủ khoa”, khi “Tham tán”, khi “Tổng đốc”. Và cuộc đời của Nguyễn Công Trứ là cuộc đời của 1 con
người thăng giáng thất thường, có những lúc lên cao như Tổng đốc cũng có những
lúc xuống thấp như 1 người lính. Nhưng khi làm quan, ông ý thức 1 điều, lúc làm
quan thì không lấy đó làm vinh, lúc làm lính thì không coi đó là nhục. Lí do
ông không chịu nhập cuộc khi làm quan là vì ông xem lúc làm quan chính là nơi để
ông thực hiện hoài bão. Còn nữa, cách ngắt nhịp trong 4 khổ thơ này rất linh hoạt,
lúc thì 3/3/4 lúc thì 3/2/3 lúc thì 3/3 lúc thì 3/4. Và cách
ngắt nhiệp này thể hiện thái độ tự tin, tự hào của tác giả về bản thân mình.
Không chỉ thế, với cái giọng điệu sảng khoái đó, ông đã kể cho người đọc, người
nghe “Toàn chuyện lớn lao, hiển hách mà
nghe như chơi”.
Vậy
chốt lại ý chính của 4 câu thơ này qua nghệ thuật liệt kê, giọng điệu sảng
khoái và cách ngắt nhịp biến hóa thì ngất ngưởng đối với Nguyễn Công Trứ chính
là sự thể hiện tài năng, sự nghiệp của 1 con người đầy bản lĩnh, 1 con người thực
sự tài giỏi và đó cũng chính là bản lĩnh đáng trân trọng của ông Hi Văn.
Như
vậy tóm lại, qua lời giới thiệu đầy ngạo nghễ, Nguyễn Công Trứ đã cho ta thấy
được những danh hiệu đã được đánh dấu một cuộc đời tài năng với bao nhiêu phấn đấu
gian khổ, cống hiến cho đất nước. Thế là ông đã hoàn thành nhiệm vụ của 1 quân
thần đối với vua cũng như của 1 người dân đối với nước, và như vậy ông hoàn
toàn xứng đáng được ngất ngưởng chốn quan trường.
Tiếp
theo là những đoạn thơ kể về Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng khi từ quan.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất
ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây
trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng
từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh
một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất
ngưởng.
Đươc mất dương dương người
thái thượng,
Khen chê phoi phới ngọn
đông phong.
Khi ca, khi tưu, khi cắc,
khi tùng,
Không Phật, không Tiên,
không vướng tục.
Lại
1 lần nữa, chúng ta bắt gặp được 1 câu thơ chữ hán xuất hiện đầu, “Đô
môn giải tổ chi niên,“. Có nghĩa là, ông đã thoát khỏi mọi ràng buộc chốn
quan trường. Có thể nói, 30 năm ở chốn quan trường, Nguyễn Công Trứ đã làm được
rất nhiều điều cho dân cho nước. Câu thơ chữ hán được cất lên, ông nhẹ nhàng từ
giã chốn làm quan sau 30 năm để về chốn quê nhà. Đây cũng chính là cơ hội để
Nguyễn Công Trứ có thể sống được cuộc đời của chính mình.
Và
khi về quê “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”.
ông về 1 cách đạc ngựa cho bò, đeo mo cau sau đuôi bò, bảo là che miệng thế
gian chứ không về theo cách ngựa ngựa, xe xe. Qua đó ta thấy, Nguyễn Công Trứ
không quan tâm đến miệng lưỡi người đời, mặc người ta cười nói, nghĩ gì về ông,
ông chỉ quan tâm đến việc được sống là chính mình, sống thật với bản thân.
Kìa núi nọ phau phau mây
trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng
từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh
một đôi dì,
Từ
1 vị quan có rất nhiều cống hiến cho đất nhà, mà bây giờ lại từ bi. Cái từ bi
đó cho thấy 1 chút hóm hỉnh của ông, và để rồi đi lên chùa, cái chốn thâm
nghiêm nơi cửa Phật. Nguyễn Công Trứ lại “Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”,
người mang theo đôi hầu gái, đâu phải mang theo hầu gái là điều không đúng đắn.
Bởi với ông, Tiên Phật là cái điều mình thể hiện ở trong lòng chứ không phải ở
bên ngoài. Dù đi đâu, làm gì, dù có khác người đi chăng nữa,với ông đó là cách
mà ông thể hiện bản lĩnh đối với chính bản thân ông.
Tiếp
theo những mạch cảm xúc đo, thi nhân đưa người đọc đến những vần thơ:
Khi ca, khi tưu, khi cắc,
khi tùng,
Không Phật, không Tiên,
không vướng tục.
Nếu
như ở những câu thơ trên, ông “Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”
khiến cho Bụt cũng nực người ông ngất ngưởng. Thì cũng không thể trách được con
người có lỗi sống tự do, thoải mái như thế, một con người không quan trọng miệng
lưỡi thế gian mà chỉ quan trọng những hành động thực tiễn của mình. Và lúc này
cái cách ngắt nhịp cũng trở nên khác thường 2/2/2/2. Ở đây cách ngắt nhịp giống như tiếng trống đổ dồn, rồi nện
mạnh xuống mặt trống thể hiện một cách khoáng đạt của tâm hồn. Nó thể hiện lối
sống của con người muốn được sống thỏa thích theo ý của minh, không giống ai.
Cấu
trúc của câu thơ “khi – không” như 1
lời buôn nhẹ của 1 lời tự hào, 1 lời tự chào của 1 con người đã sống và cống hiến
1 quãng đời mình cho dân, cho nước. Có
thể nói, âm điệu của câu thơ vang lên rất nhẹ nhàng, rất uyển chuyển mà lại còn
pha 1 chút cảm hứng để cho người đọc cảm nhận được cách nghĩ, cách chơi của 1
nhà Nho Nguyễn Công Trứ ở đây dường như với ông, những cái hình thái, nghệ thuật
hay những trò giải trí đó chính là những cái điều mà ông được thỏa sức vẫy vùng
trong cái bản lĩnh của mình. Và cũng vì thế mà Nguyễn Công Trứ không quan tâm đến
cái chuyện được mất hơn thua ở đời.
Đươc mất dương dương người
thái thượng,
Khen chê phoi phới ngọn
đông phong.
Chúng
ta có thể nói, nếu câu thơ vang lên vừa mở ra trước mắt người đọc cái không
gian, thời gian của người “thái thượng” là
người từ cổ đến giờ, ngọn “đông phong” là 1 cái ngọn gió phơi phơi của mùa xuân đem
đến hơi ấm, đem đến hạnh phúc. Khi đọc đến câu thơ này, người đọc lẫn người
nghe vẫn có thể mỉm cười trước hình ảnh nhà Nho Nguyễn Công Trứ. Lúc này, không
phải còn là 1 vị Tổng đốc oai nghiêm dẫn dắt cả đoàn quân đi ra trận mà hiện
lên ở đây là 1 con người tự do, tự tại, ung dung. Không quan tâm đến việc hơn
thua, chỉ xem những điều đó là cơn gió thoảng qua ngang tai. Ông chỉ quan trọng
việc được sống đúng là mình, vì cuộc sống như thế mới thực sự là cuộc sống có ý
nghĩa. Ông tự thấy mình có quyền được “ngất
ngưởng” khi ông về hưu khi ông đã làm được nhiều việc có ích cho dân.
Với
giọng thơ tự hào, sảng khoái pha chút hóm hỉnh. Đoạn thơ đã thể hiện 1 phần cứng
cỏi của cuộc đời ông. Nó xuất phát từ sự tự rõ ý thức về tài năng của chính bản
thân. Đó cũng chính là 1 thái độ, 1 quan niệm nhân sinh hiện đại. Đề cao ý thức
cá nhân, ý thức về cái tôi phóng khoáng, là những điều hiếm thấy trong văn học
trung đại.
Kế
tiếp là 3 khổ thơ cuối cùng, 3 khổ thơ nói lên vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Công
Trứ:
Chẳng Trái, Nhạc cũng
vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo
sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng
như ông !
Như
chúng ta đã thấy ở những phần trước. Việc làm quan đối với Nguyễn Công Trứ là 1
cuộc chơi, 1 cuộc chơi của 1 con người có tài năng, có nhiệt huyết. Và khi về với
chốn quê hương, ông cũng có 1 cuộc chơi, cuộc chơi được sống đúng là chính
mình, đó là bỏ qua những lễ giáo, những dư luận của người đời. Thế nhưng, cái cốt
lõi của vấn đề là ở chỗ, ở bất kì cuộc chơi nào. Cuộc chơi của 1 vị quan trong
chốn quan trường hay cuộc chơi của 1 con người ở nơi quê làng thì Nguyễn Công
Trứ vẫn khẳng định “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”.
Ở
đây, thi nhân đã nhắc đến “Trái, Nhạc”
và “Hàn, Phú”. Đây là những nhân vật
nổi tiếng của Trung Quốc, những con người tài năng. Và việc sử dụng điển cố, điển
tích như thế, ông tự coi mình và đặt mình sánh ngang với những bậc anh tài có sự
nghiệp hiển hách. Vì nếu như chúng ta dừng lại để xem thành tích cuộc đời của
ông thì ông hoàn toàn có lí do để làm việc này. Chúng ta có thể thấy, dù có tự
hào về đạo đức, tự hào về tài năng của bản thân mình nhưng ông vẫn “Nghĩa
vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Cụm từ “đạo sơ chung” có nghĩa là từ đầu cho đế cuối, dẫu là người vượt ra
khuôn khổ của lễ giáo nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn là 1 nhà Nho nơi cửa Khổng sinh
trình. Nghĩa là, ông vẫn ý thức rất rõ vài trò của cá nhân ông, vài trò của 1 đạo
quân thần đối với nhà Vua, đối với nước. Và vì thế cho nên, dẫu trước hay sau,
dẫu ngất ngưởng bao nhiêu, dẫu hóm hỉnh bao nhiêu thì ta vẫn có thể thấy được
cái con người tài năng, bản lĩnh ấy vẫn luôn xứng đáng là con người có nhân
cách rất đáng được trân trọng.
Và
để rồi bài thơ được khép lại thật độc đáo:
Trong triều ai ngất ngưởng
như ông !
1
câu thơ vang lên đỉnh đạc, hào hùng này đã thể hiện rất rõ cái ý thức việc tự
hào 1 cách sâu sắc về giá trị bản thân “ông”.
Chữ “ông” kết hợp với dấu chấm
thang, điều đó cho ta thấy 1 lần nữa, ông khẳng định vai trò cái tôi cá nhân và
đặc biệt từ “ngất ngưởng” được lặp lại.
Nếu như chúng ta chú ý thì có thể thấy được từ “ngất ngưởng” được lặp lại nhiều lần trong bài thơ, kể cả nhan đề.
Chứng tỏ rằng, xuyên suốt bài thơ, ông chú trọng từ “ngất ngưởng”. Qua đó, chúng ta còn có thể thấy thêm 1 điều rằng
ông không chịu khom lưng, quỳ gối trước cái thế lực xã hội phong kiến.
Đối
với ông, việc làm quan là mất đi sự tự do, là
“đã vào lồng”, nhưng ông vẫn làm quan vì đó là 1 điều
kiện, 1 phương tiện để ông thể tài năng hoài bão vì dân, vì nước của mình mà vẫn
giữ được bản lĩnh, cá tính riêng.
Bài thơ có ý vị trào phúng. Đằng
sau nụ cười là 1 thái độ, 1 quan niệm nhân sinh mang màu sắc hiện đại. Ngoài ra
bài thơ còn thể hiện nhân cách cứng cỏi của 1 danh sĩ thể kỉ XVIII. Muốn thể hiện
phong cách và những bản lĩnh độc đáo cần có phẩm chất trí tuệ, tài năng thực sự
nhằm đạt được mục tiêu mình đề ra.