Labels

Được tạo bởi Blogger.

Thứ Ba, 5 tháng 7, 2016

Chí phèo

I. Tác giả và tác phẩm 

1. Tác giả 

a. Cuộc đời và con người:

- Nam Cao (1915 – 1951) tên thật là Trần Hữu Tri, sinh tại Hà Nam, trong một gia đình trung nông nghèo. Quê ông là làng Đại Hoàng, quanh năm nghèo đói, bị cường hào áp bức bóc lột rất nặng nề. Học xong bậc thành chung, Nam Cao sống bằng nghề dạy học và viết văn. 

- Năm 1943, Nam Cao gia nhập hội Văn hóa cứu quốc và tham gia Cách mạng tháng Tám. Sau đó, ông theo đoàn quân Nam Tiến vào vùng Nam Trung Bộ tiếp tục hoạt động kháng chiến.

- Trong kháng chiến chống Pháp, Nam Cao công tác văn nghệ, báo chí ở Việt Bắc, tham gia chiến dịch Biên giới (1950). Năm 1951, ông bị giặc bắt và hi sinh. Con người của Nam Cao, đặc biệt là trong xã hội trước Cách mạng tháng Tám, nổi bật một số đặc điểm: 

- Tâm trạng bất hòa sâu sắc đối với xã hội đương thời. - Sự gắn bó ân tình sâu nặng, thiết tha với người nông dân nơi đồng ruộng làng quê. - Tinh thần tự đấu tranh một cách trung thực để vượt qua chính mình, cố khắc phục tâm lí, lối sống tiểu tư sản.



b. Quan điểm nghệ thuật:

- Nam Cao là nhà văn rất tự giác về quan điểm có tính nguyên tắc của văn học hiện thực tiến bộ và văn học chính nói chung: 

- Ông không chạy theo cái đẹp, cái thơ mộng, quay lưng lại với hiện thực rồi viết ra những lời giả dối, phù phiếm.

- Văn chương chân chính là văn chương thấm đượm lí tưởng nhân đạo, vừa mang nỗi đau nhân thế, vừa có thể tiếp sức mạnh 
cho con người vươn tới cuộc sống nhân ái, công bằng.

 - Cuộc sống phải đặt trên văn chương, văn chương phải vì con người. Nhà văn chân chính trước hết phải là con người chân chính, tức là phải có nhân cách, có lòng nhân đạo. 

- Bản chất của văn chương là sáng tạo, không chấp nhận sự rập khuôn và sự dễ dãi. 



c. Sự nghiệp văn chương:

-  Nam Cao để lại nhiều tác phẩm văn xuôi có giá trị: hơn 60 truyện ngắn, 1 truyện vừa, 1 tiểu thuyết và một số vở kịch Trước Cách mạng, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của xu hướng văn học hiện thực phê phán trong giai đoạn 1940 – 1945; đồng thời là một trong những tài năng xuất sắc của nền văn xuôi đương thời. Sáng tác của Nam Cao tập trung vào đề tài cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo (Trăng sáng, Nước mắt, Đời thừa… và tiểu thuyết Sống mòn). Nam Cao miêu tả tình cảnh khốn cùng của người tri thức nghèo, đồng thời làm toát lên không khí ngột ngạt, bế tắc của xã hội. Các tác phẩm phản ánh tấn bi kịch tinh thần, bi kịch của con người có ý thức sâu sắc về giá trị cuộc sống, khao khát cuộc sống có ý nghĩa, có hoài bão, nhân cách, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội làm cho chết mòn, phải sống cuộc đời thừa. Nam Cao còn khoảng 20 truyện ngắn về cuộc sống tối tăm, thê thảm của người nông dân (Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no).

- Nam Cao quan tâm đến những thân phận cố cùng, những số phận hẩm hiu bị áp bức chà đạp… và bênh vực quyền sống, nhân phẩm của những người bất hạnh đó. Dù viết đề tài nào thì điều khiến cho Nam Cao day dứt, đau đớn nhất là tình trạng con người bị xói mòn về nhâm phẩm, thậm chí bị hủy diệt cả nhân tính trong xã hội đương thời.

- Sau Cách mạng, Nam Cao là vào công tác cách mạng và kháng chiến. Truyện ngắn Đôi mắt là thành công của ông khi viết về trí thức nghèo trong xã hội. Trong thời gian công tác ở Bắc Cạn, ông viết Nhật kí ở rừng và tập kí sự Chuyện biên giới. 



d. Về phong cách nghệ thuật 

- Nam Cao đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá con người trong con người.

- Nam Cao có khuynh hướng tìm về nội tâm, đi sâu và thế giới nội tâm của con người. Ông có biệt tài về diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật.

- Xuất phát từ việc hiểu tâm lí nhân vật, Nam Cao đã tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động. 

- Nam Cao là nhà văn có giọng điệu riêng: buồn thương, chua chát, dửng dung, lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương. 



2. Tác phẩm:

- Truyện ngắn Chí phèo nguyên có tên là Cái lò gạch cũ. Năm 1941, khi nhà xuất bản in thành sách lần đầu, họ đã tự ý đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày, tác giả lại đặt tên là Chí Phèo. Tác phẩm Chí Phèo có một vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao. Nó giúp khẳng định tài năng của một nhà văn mang phong cách hiện thực phê phán. Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi hiện đại Việt Nam, là một truyện ngắn có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, chứng tỏ trình độ nghệ thuật bậc thầy của một nhà văn lớn.




II> TÌM HIỂU TÁC PHẨM:


Cách vào truyện độc đáo của Nam Cao và ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo

- Nam Cao mở đầu truyện bằng một tình huống độc đáo, ấn tượng: Chí Phèo vừa đi vừa chửi, nhưng điều lạ lùng là không có người chửi lại hắn và cũng không có người nghe hắn chửi. Hắn chửi bâng quơ, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi lại hắn và rồi lại chửi cha đứa nào đã sinh ra mình. Có người nói rằng, hắn chửi vì hắn say rượu không làm chủ được bản thân, nhưng thực sự trong con người Chí Phèo cái say và cái tỉnh đang xen nhau song song cùng tồn tại.

- Tiếng chửi của Chí Phèo chính là phản ứng của hắn trước toàn bộ cuộc đời bất hạnh. Nó bộc lộ tâm trạng bất mãn tột độ của một con người ý thức được rằng mình đã bị xã hội ruồng bỏ. Những tiếng chửi vô nghĩa, không được xã hội đón nhận, lắng nghe. Một khi đã bị tước mất quyền làm người thì mọi tiếng chửi rủa, than khóc, tỉnh táo hay say xỉn đều vô tác dụng. Chí Phèo thích kêu làng kêu xóm, đối với một người bình thường thì những tiếng kêu ấy ngay tập tức gây được sự chú ý của mọi người, nhưng đối với Chí lại khác, dù hắn kêu làng như một người bị đâm thì giỏi lắm chỉ làm cho Thị Nở kinh ngạc còn cả làng vẫn không ai động dạng… mà đáp lại lời hắn chỉ có lũ chó xôn xao trong xóm.


- Những chi tiết này cho thấy một kiếp sống cô độc của người nông dân bị tha hóa, bị xã hội ruồng bỏ, không còn tư cách làm người. Chí Phèo tồn tại như một “bóng ma” nhưng là một “bóng ma” lạc lõng và không gây kinh sợ cho ai cả.




Ý nghĩa cuộc gặp gỡ giữa Thị Nở và Chí Phèo và diễn biến tâm trạng của Chí Phèo 

- Cuộc gặp gỡ với Thị Nở là những giây phút Chí Phèo được trở lại “làm người”, được ước mơ, suy nghĩ và tỉnh táo thực sự. Khi bị ốm, trước sự săn sóc ân tình và tình yêu thương của Thị Nở, tâm trạng của Chí bắt đầu diễn biến khá phức tạp. Sự săn sóc của người đàn bà xấu xí, khốn khổ đã khơi dậy bản chất lương thiện vốn bị chèn lấp từ lâu trong con người Chí Phèo. Nam Cao đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình đối với hình tượng người nông dân bị tha hóa khi sáng tạo ra chi tiết gặp gỡ của Chí Phèo với Thị Nở. 

- Khi được Thị Nở cho bát cháo hành, Chí rất ngạc nhiên, cảm động và thấy mắt mình ươn ướt vì xưa nay, “nào hắn thấy ai tự nhiên cho mình thứ gì… hắn nhìn vào bát cháo bốc khói mà bâng khuâng vừa vui vừa buồn”. Vui vì lần đầu tiên hắn được một người phụ nữ chăm sóc mà không đòi hỏi gì; buồn vì nhận ra thực chất thân phận tha hóa của mình. 

- Với sự chăm sóc của người đàn bà xấu xí, Chí Phèo bỗng mơ ước xa xôi, những ước mơ từng có trong con người hắn trước đây. Đó là có một mái ấm gia đình nho nhỏ, chồng vợ cùng làm thuê kiếm sống và những đứa con xinh xắn và hắn cũng nhớ tới cảm thấy tởm lợm, nỗi nhục nhã khi bị lấy vợ Ba của Bá Kiến lợi dụng. Chí Phèo hi vọng Thị Nở sẽ là người mở đường, tạo điều kiện cho hắn trở về với xã hội, làm lại cuộc đời.




Tâm trạng của Chí Phèo khi bị Thị Nở từ chối chung sống 

- Thị Nở là một người ngớ ngẩn, chính cái ngớ ngẩn ấy đã đập tan mọi hi vọng cứu vãn cuộc đời Chí Phèo. Sau khi bị Thị Nở từ chối chung sống và cũng không có cách nào níu giữ được Thị, Chí Phèo rơi vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng, mọi hy vọng cho một tương lai “làm người” bỗng chốc hóa thành mây khói. Trong cơn tuyệt vọng ấy, Chí Phèo như tỉnh hẳn và chua xót nhận ra bi kịch tinh thần của cuộc đời mình, người vốn sinh ra là người nhưng lại không được làm “người”. Hắn vật xã, đau đớn. Càng tuyệt vọng, hắn càng uống rượu, nhưng càng uống rượu, hắn càng tỉnh ra. Trong tận sâu thẳm tâm hồn, hắn ý thức được nỗi đau thân phận của mình. Vì thế, hắn ôm mặt khóc rưng rức và luôn thấy thoang thoảng mùi cháo hành. Chi tiết này được nhắc đi nhắc lại nhằm tô đậm niềm khao khát tình yêu thương, khát khao cuộc sống lương thiện và cũng nhấn mạnh bi kịch tinh thần không cách có thể cứu vãn. 

- Trong tột cùng bế tắc, Chí Phèo càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã cướp đi dung mạo và linh hồn người của mình, biến mình thành một con “quỷ” của làng Vũ Đại. Chí Phèo xách dao ra đi, thay vì đến nhà bà cô Thị Nở như dự định, tâm trí lại điều khiển hắn đến nhà Bá Kiến, người đã gây ra bao bất hạnh cho cuộc đời hắn. Khác với các lần trước, lần này, hắn đòi Bá Kiến trả cho hắn cái thứ quý giá mà hắn đã mất từ lâu, đó là làm người lương thiện.

 - Nhưng làm sao để trở về làm người lương thiện như trước đây, cuối cùng, hắn đã chọn cách giải quyết duy nhất có thể, đó là giết kẻ đã gây ra đau khổ cho đời mình, đồng thời tự kết liễu cuộc sống của mình. Chí Phèo đâm chết Bá Kiến không phải vì say rượu mà vì hắn hiểu rõ nguồn gốc bi kịch của đời mình.


Nghệ thuật điển hình hóa nhân vật đặc sắc và tư tưởng nhân đạo của Nam Cao.

- Chí Phèo là một tác phẩm độc đáo, xuất sắc, thể hiện sự thành công của Nam Cao về đề tài người nông dân bị tha hóa trước Cách mạng. Một trong những nghệ thuật đặc sắc được Nam Cao thể hiện trong tác phẩm là việc xây dựng nghệ thuật điển hình hóa nhân vật. 

- Các nhân vật Bá Kiến, Chí Phèo vừa là những đại diện tiêu biểu cho các tầng lớp xã hội cơ bản của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, vừa là những người có cá tính độc đáo và có sức sống mạnh mẽ. Tâm lí nhân vật được miêu tả sắc sảo, tinh tế, đi sâu vào nội tâm để diễn tả những diễn biến phức tạp phát sinh trong cuộc đời. 

- Xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo, một người nông dân bị tha hóa, bị xã hội ruồng bỏ, tác giả muốn thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, tấm lòng yêu thương, trân trọng những người khốn khổ. Chí Phèo còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh. Hãy bảo vệ, tạo điều kiện giúp đỡ những người lầm đường lạc lối, đưa họ trở về với cộng đồng.

Thứ Hai, 4 tháng 7, 2016

Chữ Người Tử Tù


Tác giả.
–  Nguyễn Tuân sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, ông là một nhà văn có những đóng góp lớn lao cho sự nghiệp văn học ở thế kỉ XX.
–  Ông là một nghệ sĩ tài hoa, ông có một phong cách viết độc đáo, phong cách của ông tạo cho ông một cái riêng biệt không giống ai chính vì vậy đã tạo cho ông một phong cách riêng biệt và có những đóng góp lớn cho sự nghiệp văn học của mình.
–  Ông có rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng trong đó có bài truyện ngắn chữ người tử tù, vang bóng một thời…
Tác phẩm.
– Tác phẩm ban đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng” vào năm 1939 in trên tạp chí Tao Đàn. Đến năm 1940 , được tuyển in trên tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành “Chữ người tử tù. Đây” là truyện ngắn đã nói về một người tài hoa nhưng lại mang một số phận tù đầy những trong ngục tù cái đẹp vẫn nảy sinh mà không hề bị mất đi.
Bố cục:
Gồm 3 phần:
Phần 1: Từ đầu cho đến “rồi sẽ liệu” – Tác giả miêu tả tâm trạng của viên quan cai ngục khi nghe tin người tử tù sắp được giải đến là Huấn Cao. Một người có tài viết chữ đẹp nổi tiếng vùng tỉnh Đông, sẽ được đưa đến giam tại nhà ngục do ông ta quản lí. Nhân vật viên quản ngục được miêu tả là một người có tấm lòng, “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

Phần 2:Từ “Sớm hôm sau” đến “trong thiên hạ” – Tác giả miêu tả tâm trạng và thái độ của viên quan coi ngục khi Huấn Cao được giải đến. Khi Huấn Cao được đưa đến, viên quản ngục tiếp đón đoàn tù binh khác ngày thường. Huấn Cao hiên ngang giữa chốn ngục tù, thản nhiên đón nhận sự biệt đãi của viên ngục quan. Viên quản ngục mong chờ ngày xin được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà.

Phần 3: Phần còn lại – Cảnh cho chữ. Huấn Cao viết chữ tặng viên quản ngục giữa căn phòng giam chật, tối tăm. Khi cho chữ, Huấn Cao khuyên viên quản ngục nên từ bỏ công việc cai ngục để giữ vững thiên lương.



1.Tình huống truyện:
Cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường:
-  Viên quản ngục- kẻ đại diện cho quyền lực tăm tối nhưng lại khao khát ánh sáng và chữ nghĩa.
-  Huấn Cao – người tử tù có tài viết chữ đẹp, chống lại triều đình phong kiến.

Tác dụng: Cuộc hội ngộ diễn ra giữa chốn ngục tù căng thẳng, kịch tính, có ý nghĩa đối đầu giữa cái đẹp cái thiện đối trái với quyền lực tội ác. Kết quả là cái đẹp, cái thiên lương đã thắng thế.



2.Hình tượng nhân vật Huấn Cao:
-  Kẻ cầm đầu cuộc đại nghịch chống triều đình bị bắt giam với án tử hình đang chờ ngày ra pháp trường.


Phẩm chất:
·         Tài hoa, nghệ sĩ: Có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp... Có được chữ Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời...Thế ra y văn võ đều có tài cả. 
·         Nhân cách trong sáng, trọng nghĩa khinh lợi, có tài có tâm, coi khinh tiền bạc và quyền thế. Huấn Cao không chỉ là một nghệ sỹ tài hoa, mà còn là hiện thân của cái tâm kẻ sỹ. Có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, một thiên lương cao cả.
·         Khí phách hiên ngang: Coi thường cái chết, Mặc dù đang chờ ngày ra chặt đầu, vẫn nguyên vẹn tư thế ung dung, đàng hoàng, không biết cúi đầu trước quyền lực và đồng tiền. Ta nhất sinh không vì tiền bạc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối ...đời ta mới viết... cho ba người bạn thân..

=> Nhân vật được giới thiệu gián tiếp. Mới Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình mà Quản ngục đã tâm phục Huấn Cao - đó là cách miêu tả lấy xa nói gần, lấy bóng lộ hình.

- Hiểu tấm lòng và sở thích cao quí của thầy Quản, ông vô cùng xúc động và ân hận: Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.
- Hình tượng Huấn Cao trọn vẹn và hoàn hảo bởi một cảm hứng lãng mạn, một bút pháp lý tưởng hoá của Nguyễn Tuân. Một cốt cáchNhất sinh đệ thủ bái hoa mai.



3.Nhân vật Quản ngục
- Kẻ say mê chơi chữ đến kỳ lạ.
- Kiên trì nhẫn nại, công phu, quyết xin chữ cho bằng được. 
- Suốt đời chỉ có một ao ước: Có được chữ Huấn Cao mà treo trong nhà ...
-  Muốn chơi chữ Huấn Cao.
·         Dám nhờ Thơ lại xin chữ.
·         Đối đãi đặc biệt với tử tù.
=> Đó là cuộc chạy đua nguy hiểm, nếu lộ chuyện quản ngục chắc chắn không giữ được mạng sống.
-  Lần đầu: Bí mật sai thầy Thơ dâng rượu thịt đều đều.
- Lần hai: Nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng bị Huấn Cao miệt thị, xua đuổi, mà vẫn ôn tồn, nhã nhặn.
=> Muốn xin chữ của Huấn Cao.

- Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc, thì hắn lại có tính cách dịu dàng...biết trọng người ngay.
-  Một tâm hồn nghệ sỹ tài hoa đã lạc vào chốn nhơ bẩn. Tuy làm nghề thất đức nhưng có một tâm hồn
=> Trong xã hội phong kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy bất lương vô đạo, Quản ngục đúng là một con người Vang bóng

- Một tấm lòng trong thiên hạ….một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luận đều hỗn loạn xô bồ.
=> Biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và yêu quí cái đẹp - một tấm lòng Biệt nhỡn liên tài.






4.Cảnh Huấn Cao cho chữ viên Quản ngục
- Tình huống oái oăm, cuộc kỳ ngộ đầy kịch tính giữa tên người viết chữ đẹp và người chơi chữ. Họ gặp nhau trong hoàn cảnh trớ trêu: Nhà ngục.
- Xét trên bình diện xã hội: Họ là kẻ thù của nhau. Xét trên bình diện nghệ thuật: Họ là tri âm tri kỷ.
-  Lúc nửa đêm, trong nhà tù, vài canh giờ cuối cùng trước lúc ra pháp trường.
-  Trong không gian chật hẹp, ẩm ướt, tối tăm, bẩn thỉu, khói bốc nghi ngút, dưới ánh sáng của ngọn đuốc tẩm dầu là hình ảnh 3 cái đầu chụm lại. Một người tù cổ mang gông chân vướng xiềng đang tô đậm những nét chữ trên vuông lụa trắng tinh, cạnh viên quản ngục khúm núm, thầy thơ lại run run.
- Đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có:
·         Bởi việc cho chữ diễn ra trong nhà ngục bẩn thỉu, tối tăm, chật hẹp.
·         Bởi người nghệ sỹ sáng tạo trong lúc cổ mang gông, chân vướng xiềng...
·         Bởi người tử tù lại ở trong tư thế bề trên, uy nghi, lồng lộng. Còn kẻ quyền uy lại khúm núm run run, kính cẩn, vái lạy.

=> Tác giả dựng lên thật đẹp nhóm tượng đài thiên lương với bút pháp tài năng bậc thầy về ngôn ngữ.

=> Trong chốn ngục tù ấy cái đẹp, cái thiện, cái cao cả đã chiến thắng và toả sáng. Đây là việc làm của kẻ tri âm dành cho người tri kỷ, của một tấm lòng đền đáp một tấm lòng. Cái tâm đang điều khiển cái tài, cái tâm cái tài đang hoà vào nhau để sáng tạo cái đẹp.




5.Tư tưởng tác phẩm
- Dù thực tại có tối tăm tàn bạo đến đâu cũng không thể tiêu diệt được cái đẹp. Cái đẹp bất khả chiến bại. Niềm tin mãnh liệt thuộc về chủ nghĩa nhân văn sáng giá của nghệ thuật Nguyễn Tuân, đó là một lối sống, một nhân cách, một mẫu người.

Nghệ thuật
·         Tạo tình huống truyện độc đáo, đặc sắc
·         Sử dụng thành công thủ pháp đối lập tương phản.
·         Xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao – người hội tụ nhiều vẻ đẹp.
·         Ngôn ngữ góc cạnh, giàu hình ảnh, có tính tạo hình, vừa cổ kính vừa hiện đại.

Ý nghĩa văn bản
- "Chữ người tử tù" khẳng định và tôn vinh sự chiến thắng của ánh sáng đối với cái đẹp, cái thiện và nhân cách cao cả của con người đồng thời bộc lộ lòng yêu nước thầm kín của nhà văn.


Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2016

Hai đứa trẻ

Đôi nét về tác giả:

- Thạch Lam (1910 – 1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sinh tại Hà Nội, trong một gia đình cống chức gốc quan lại. Gia đình Thạch Lam có tryền thống về dân tộc, cả ba anh em ông đều là những tác giả xuất sắc trong Tự lực văn đoàn. Ông bắt đầu sự nghiệp làm báo, viết văn sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất. Là em ruột của Nhất Linh, Hoàng Đạo, cả ba điều là thành viên trụ cột của Tự lực văn đoàn. Là nhà văn vừa viết văn vừa làm báo, đồng thời ông cũng là cây bút chủ chốt của 2 tờ báo “Phong hóa”, “Ngày nay”
Thạch Lam là người đôn hậu và rất tinh tế. Ông có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn. Đối với ông “Văn chương là 1 khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo, thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Ông thường viết những truyện không có chuyện, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị và thâm trầm, sâu sắc. Thạch Lam để lại những tác phẩm xuất sắc như tập truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); tiểu thuyết Ngày mới (1939); tập tiểu luận Theo dòng (1941); tùy bút Hà Nội ba sáu phố phường (1943).

- Tác phẩm Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, in trong tập Nắng trong vườn. Cũng như nhiều truyện ngắn khác của ông, Hai đứa trẻ có sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình. Thế nhưng, đây là truyện không có cốt truyện, chủ yếu là thế giới nội tâm nhân vật, để có thể gửi gắm kín đáo và nhẹ nhàng đi vào tư tưởng nhận đạo sâu sắc, đồng thời đây cũng là tác phẩm có sự hòa quyện cả 2 yếu tố hiện thực và lãng mạn chữ tình. Tác phẩm là hồi quan kí ức tuổi thơ của nhà văn, khung cảnh phố huyện trong văn là khung cảnh “nguyên mẫu”  từ phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, nơi tác giả sống thời thơ ấu.

Bố cục của bài văn gồm 3 phần:

- Phần 1: Từ đầu đến “nhỏ dần về phía làng” – Tả cảnh phố huyện lúc chiều về.

- Phần 2: Từ “Trời đã bắt đầu đến giấc mơ hồ không hiểu” – Tả cảnh phố huyện lúc đêm xuống.

- Phần 3: Phần còn lại - Tả cảnh phố huyện lúc đoàn tàu đi qua.



1. Cảnh vật trong truyện được diễn ra trong thời gian và không gian như sau:
–  Cảnh vật xuất hiện trong bài xuất hiện trong cảnh chiều tối, không gian là vào buổi tan chợ, những tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một đã vang lên để gọi buổi chiều, nó hiện lên trong một không gian ở phố huyện.
– Những cảnh vật xuất hiện trong một buổi chiều thu đang bước vào những cơn gió, hòa vào là tiếng ếch kêu êm ả như ru, văng vẳng đâu đó là tiếng ếch kêu và những tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng.
– Không gian yên tĩnh của con người giờ chỉ xuất hiện là những tiếng của đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve, khi tan chợ vào chiều tối, giờ đây chỉ xuất hiện những tiếng của thiên nhiên, con người xuất hiện đã ít.
– Trong không khí của buổi chiều đó, tiếng chợ nhộn nhịp đã vãn từ lâu, người vể hết tiếng ồn ào mất đi, và trên không gian lúc này chỉ con lại là rác rưởi và tiếng động vật.
2. Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống và hình ảnh những người dân ở phố huyện:
– Cuộc sống của phố huyện vào buổi chiều thật tẻ nhạt, khi đã vãn chợ lúc này chỉ còn rác và hình ảnh hai chị em Liên và An, những hình ảnh đèn thắp sáng nhỏ trong quán của Liên thấp thoáng hiện lên.
– Cuộc sống nghèo đói ở nơi đây đã thấy những không gian tẻ nhạt, hai chị em vẫn đang leo lắt trong cái quán nhỏ của mình, mọi người thì đã ra về hết rồi.
– Cuộc sống ở phố huyện thật buồn khi không gian yên tĩnh trầm lặng nó đưa con người tới một cảm giác cô đơn và tuyệt vọng, mọi người mong có cái gì đó mới lạ sẽ diễn ra.
– Lúc này con người xuất hiện chỉ là điểm tô thêm cho cuộc sống ở nơi đây, những người còn lại duy nhất lúc này là những người đang bươn trải kiếm sống những người bán hàng về muộn, họ đang thu xếp hàng hóa và tranh thủ nói với nhau dăm ba câu chuyện để tiếp tục những câu truyện đang dở.
– Hình ảnh những đứa trẻ em nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom đi tìm tòi nhặt nhạnh, còn những hình ảnh của những người ngày cắm mặt với đất bán lưng cho trời.
– Cuộc sống của họ nghèo khổ họ vẫn bươn trải và kiếm từng đồng để có tiền bươn trải lo cho cuộc sống của mình.
– Một trong những sự nghèo khó đó đã làm cho họ chỉ biết đến lao động mà không biết đến chơi hoặc thưởng thức sự sống.
– Hình ảnh bà cụ Thi điên hay hình ảnh vợ chồng bác xẩm hiện lên sắc nét trong bài văn.
=> Tác giả đã vẽ ra một bức tranh có cuộc sống và hình ảnh con người hiện lên thật sinh động đây là những con người đang phải bươn trải và lo cho cuộc sống của mình.


3. Tâm trạng của Liên và An trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh phố huyện.
– Hai chị em mong chờ có cái gì đó tươi sáng hiện lên trước mắt, những hình ảnh về một phố huyện nghèo khiến cho hai người đang mơ tưởn đến cuộc sống ở Hà Nội nơi có những thứ nước xanh đỏ, cùng với những ánh sáng sặc sỡ.
– An đã mong chờ để xem đoàn tàu đi tới hình ảnh hai đợi đoàn tàu và một bức tranh thiên nhiên mới hiện lên trong tâm trí của hai người, hai người đã mong chờ có những tia sáng mới hiện lên trong cuộc sống tẻ nhạt này.
– Lúc này hình ảnh phố huyện hiện lên chỉ với những hình ảnh mập mờ, lập lòa của những ánh điện ở phố huyện nghèo này, chúng ta thấy xuất hiện những hình ảnh những cảnh con người đang lo kiếm sống và khung cảnh thiên nhiên lúc này chỉ còn là những bóng tối, sự im lặng và cảnh của những con người nghèo khổ.
– Khung cảnh thiên nhiên ở phố huyện xuất hiện thật tẻ nhạt nó làm cho tâm hồn của những đứa trẻ mong ước có cái gì đó thay đổi và khác với cuộc sống nghèo khó hiện tại.
– Bức tranh thiên nhiên phố huyện hiện lên tẻ nhạt và có những hình ảnh nghèo khó về một cuộc sống đói khổ ở nơi đây.


5. Nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam:
– Ông đã viết lên bài hai đứa trẻ với những hình ảnh nội tâm sâu sắc ở đây bài đã thể hiện những hình ảnh đẹp về một đoàn tàu và những tâm trạng thổn thức của hai chị em, ní tạo một không gian tươi sáng.
– Giọng văn cảm xúc và nhẹ nhàng đã thu hút sự chú ý của người đọc.


6. Qua truyện ngắn tác giả muốn để lại niềm xót thương với những cảnh đời nghèo khổ, một cuộc sống cơ cực của con người ở nơi phố huyện nghèo khó này.
- Ông cũng biểu hiện niềm ao ước về một cuộc sống sẽ thay đổi cho nơi đây.



Chiếu Cầu Hiền

Câu 1: bài chiếu gồm 3 phần:
- Phần 1: từ đầu đến “ sinh ra người hiền vậy”. => vai trò, sứ mệnh của người hiền đối với nhà vua và đất nước.
- Phần 2: tiếp ->đến “của trẫm hay sao” => Tấm lòng cầu hiền của vua Quang TRung.
- Phần 3: còn lại: Con đường để người hiền tài cống hiến cho đất nước.
· Chiếu nói chung, chiếu cầu hiền nói riêng thuộc nghị luận chính trị- xã hội. Mặc dù chiếu thuộc công văn nhà nước, lệnh cho nhân dân thực hiện nhưng ở đây đối tượng bài chiếu là chính là bậc hiền tài – những nho sĩ mang nặng tư tưởng nho giáo.


Câu 2:
- Đối tượng bài chiếu đề cập: sĩ phu Bắc Hà/
- NT lập luận: Cách lập luận bài chiếu đầy sức thuyết phục
+Phần 1: Tác giả đưa ra luận điểm về mối quan hệ giữa người tài và thiên tử:
Người hiền tài phải do thiên tử sử dụng.
Không làm như vậy là trái với đạo trời, trái với lẽ sống.
+Phần 2: Tác giả nêu lên các ứng xử của bậc hiền tài khi Tây Sơn ra bắc diệt Trịnh. Phần lớn sĩ phu Bắc Hà không đem tài năng của mình ra cống hiến cho đất nước, khác nào kẻ chết đuối trên cạn mà không tự biết. Cách diễn đạt bằng hình ảnh tượng trưng vừa tế nhị, vừa có ý châm biếm nhẹ nhàng, vừa tỏ ra người ra bài chiếu có kiến thức sâu rộng, tài hoa, khiến người nghe có thái độ ứng xử cho đúng.
+Phần 3: Tác giả nêu lên lối cầu hiền của vua Quang Trung : hết sức thành tâm, khiêm nhường nhưng hết sức quyết tâm việc cầu hiền.
=>Cách lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.


Câu 3. Tầm tư tưởng và tình cảm của vua Quang Trung:
- Tất cả mọi tầng lớp nhân dân đều có thể dâng thư bày tỏ công việc.
- Cách tiến cử cũng mở rộng và dễ làm, có 3 cách : quan tiến cử, tự mình dâng thư bày tỏ công việc, tự mình tiến cử.
=>Bài chiếu thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung trong việc nhận thức vai trò của người hiền tài trong công việc tái thiết đất nước.

TỔNG KẾT:
- Sử dụng những điển tích, điển cố
- Sử dụng nhiều câu hỏi tu từ
- Từ ngữ trau chuốt, thành tâm, khiêm nhường; nghệ thuật lập luận chặt chẽ.
=>Bản chiếu là một bản chính luận đặc sắc của văn học Trung đại VN


Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (2)

Hoàn cảnh sáng tác của bài văn tế ra đời được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định để tế người nông dân – nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh vào đồn Cần Giuộc  16/12/1861.
Bài văn theo thể loại văn tế, là 1 loại văn thời cổ Trung Quốc. Thể loại này được dùng vào nhiều mục đích trong đó có tế người đã khuất. Bố cục gồm 4 phần: Lưng khỏi, thích thực, ai vãn và kết.

- Phần “Lưng khởi” 2 câu đầu, tác giả đã khái quát hoàn cảnh thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc (đọc với giọng trang trọng).

- Phần “Thích thực” từ câu 3 đến câu 15, tác giả hồi tưởng lại hình ảnh và công đức của người nông dân nghĩa sĩ (giọng đọc từ trầm lắng, hồi tưởng chuyến sang hào hứng, sảng khoái khi kể loại chiến thắng).

- Phần “Ai vãn” từ câu 16 đến câu 28, bày tỏ lòng thương tiếc, sự cảm phục của tác giả đối với người nông dân nghĩa sĩ (giọng trầm, buồn, sâu lắng và xót xa).

- Phần “Kết” 2 câu cuối, tác giả bày tỏ và ca ngợi linh hồn bất tử của các người anh hùng nghĩa sĩ (giọng thành kính, trang nghiêm).

Đến với phần 1 “Bối cảnh bão táp của thời đại và ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân – nghĩa sĩ”


“Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao: một trận đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”


“Súng giặc đất rền” “lòng dân trời tỏ”, xuất hiện sự đối lập. Một bên thể hiện sự hiện diện của các thế lực vật chất xâm lược bạo tàn và một bên thể hiện ý chí, nghị lực của lòng dân quyết tâm đánh giặc, cứu nước.  Có thể nói, tác giả đã mở ra không gian vũ trụ rộng lớn: trời – đất, rền – tỏ. Gợi sự khuếch tán âm thanh, sự rực rỡ của ánh sáng. Khái quát bối cảnh và tình thế căng thẳng của thời đại, một cuộc đụng độ giữa giặc xâm lược tàn bạo và ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân ta.
Tiếp theo là “Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao: một trận đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”, ý nghĩa của câu này muốn nói ở đây là, 10 năm công vỡ ruộng thì không ai biết đến nhưng chỉ với 1 trận đánh Tây mặc dù đã thất bại nhưng lại được tiếng thơm muôn đời. Ý nghĩa sống – chết, nhục – vinh được thể hiện rõ ràng qua các vế câu biền ngẫu. Từ đó, khẳng định quan niệm sống cao cả của nghĩa quân: “Chết vinh còn hơn sống nhục”.

HAI CÂU VĂN ĐÃ TẠO NÊN 1 BỆ ĐỞ HOÀNH TRÁNG, ĐỂ TÁC GIẢ ĐI SẮC KHẮC HỌA VẺ ĐẸP CỦA BỨC TƯỜNG ĐÀI VỀ NGƯỜI NÔNG DÂN – NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC.





Sang phần 2, phần chính của bài văn “Hình tượng người nông dân – nghĩa sĩ cần giuộc”.
a.    Nguồn gốc của nghĩa nhân(câu 3 - 5)


“Nhớ linh xưa! Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.
Chú quen cung ngựa, đâu tới trương nhung;
            chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm
                     tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”


Đầu tiên” Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.” có thể nói đây là những người suốt 1 đời “làm ăn”, “làm lũ”, “cui cút” với bao lo toan nghèo khó. Những con người ây chỉ quen với công việc nhà nông, thế giới mà họ biết chỉ là không gian làng xã và chưa hề biết đến việc binh đao, trận mạc.
Trong những câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện phát nghệ thuật liệt kê, ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm. Các vế đối của câu văn biền ngẫu, giọng điệu chứa chan tình yêu thương.
Câu số 3 và 5 nói về nguồn gốc của những nghĩa sĩ, đó là những con người vốn quen với việc làm ăn, toan lo nghèo khó những con người hoàn toàn xa lạ với việc binh đao, những câu văn đó đã buộc lộ cái nhìn chân thật, chan chứa yêu thương, niềm cảm thông của cụ Đồ Chiểu với cuộc đời làm lũ, tủi cực của người nông dân.


b.    Bước chuyển biến khi giặc xâm chiếm bờ cõi (câu 6 – 9)


Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan
như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vẩy vả đã ba năm,
ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ
Bửa thấy bòng bong che chắn lốp, muốn tới ăn gan; ngày
xem ông khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ


Từ cái nhìn chân thật với lòng cảm thương những người nông dân lam lũ, tác giả đã đưa người đọc, nghe đến hình ảnh của những con người với sự chuyển biến rõ ràng từ tình cảm, đến nhận thúc lẫn hành động khi bọn thực dân pháp xâm lược bờ cõi quê hương.
Ở đây, tác giả đã sử dụng những từ ngữ giàu sức gợi hình gợi cảm “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng”, tiếng phông hạc có nghĩa là nghe thoáng tin thực dân Pháp xâm lược, tin chưa rõ ràng nhưng người nông dân ấy trong tin quan “như trời hạn trông mưa”. Cái nghệ thuật so sánh, để cho ta thấy được cái khát vọng của người nông dân trông chờ vào hành động của chiều đình. Thế nhưng, ngóng chờ là thế, trông tin quan như trời hạn trông mưa, nhưng họ được đáp lại cái gì, chẳng có gì ngoài bặt vô âm tín.
Tiếp theo “mùi tinh chiên vẩy vả đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Tuy việc trông chờ chỉ là bặt vô âm tín nhưng người nông dân vẫn đã thể hiện rõ thái độ của mình “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”.  Một cái hình ảnh so sánh thật chân thực để thấy được thái độ yêu ghét rõ ràng của người nông dân
“Bửa thấy bòng bong che chắn lốp, muốn tới ăn gan”, bửa thấy bòng bong tức là tác giả đang diễn tả hình ảnh của bọn thực dân Pháp tiến tới xâm chiếm quê hương mình. Và có thể nói long căm thù giặc của người nông dân được diễn tả bằng những hình ảnh cường điệu hết sức mạnh mẽ mà chân thực, đậm sắc thái Nam Bộ. Thấy bòng bong che chắn lớp thì họ muốn chạy tới ăn gan, thấy ống khói đen sì lại muốn chạy ra cắn cổ.
Với những ngôn từ bình dị kết hợp với lối nói cường điệu, những hình ảnh so sánh sinh động đã miêu tả thật chính xác cách nghĩ, tâm hồn giản dị của những người nông dân Nam Bộ.

Từ việc trông chờ trong bặt vô âm tín với lòng căm thù giặc, căm thù đến tận xương tủy. Người dân đã có sự chuyển biến qua câu thơ sau:


“Một mối xa thư đồ xộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.”


“Một mối xa thư đồ xộ”, xa thư có nghĩa là xẹ cộ, ý chỉ 1 quốc gia độc lập có chủ quyền . “chém rắn” tác giả đã sử dụng điển tích nói về Hán Cao Tổ, ngày xưa đã chém rắn dựng cờ khởi nghĩa chống lại nhà Tần bạo ngược có nghĩa là “đuổi hươu”. Như vậy, 2 câu văn này có nghĩa là đất nước Việt Nam là 1 đất nước độc lập, có chủ quyền thì tại sao không phải là người nông dân mà là 1 ai khác đứng lên dựng cờ khởi nghĩa đi tìn lại tự do cho mình.
Và như vậy, việc sử dụng điển tích điển cố để khẳng định, nhấn mạnh ý thức độc lập dân tộc và tinh thần trách nhiệm của người nông dân với tổ quốc.  Vì độc lập, thống nhất của nước nhà, họ không bao giờ dung tha, không đội trời chung với giặc, đó làlũ treo dê bán chó”, lừa dối, bịp bợm.

Từ việc ý thức về trách nhiệm của bản thân đối với tổ quốc, những người nông dân ấy đã hành động lớn lên để bảo vệ quê hương.



“Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạt kình; chẳng
thèm chốn ngược chốn xuôi, chuyện này dốc ra tay bộ hổ”




Những câu văn với nhịp điệu tăng tiến, với cụm từ có sắc thái biểu cảm mạnh, “Nào đợi, chẳng thèm, xin ra sức đoạt kình, ra tay bộ hổ”. Giúp cho người đọc thấy được tấm lòng làm dân tự nguyện “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, họ sẽ đứng lên, sẽ hành động để bảo vệ quê hương mình.
Và như vậy chúng ta có thể thấy rõ được sự chuyển biến của người nông dân. Từ việc trông chờ tin quan nhưng chỉ trong vô vọng cho đến sự căm thù giặc tận xương tủy sau đó có sự ý thức với sự nghiệp cứu nước và rồi tự nguyện đứng lên chống lại kẻ thù. Tác giả đã miêu tả những chuyển biến 1 cách chân thực, sinh động, hợp lí, gần gũi với cách lời ăn tiếng nói và suy nghĩ của những người nông dân.




c.    Trong trận nghĩa đánh Tây (câu 10 – 15)




      “Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ…chẳng qua là dân ấp
                             dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn, chín chục trận
                                           binh thư , không chờ bày bố.”




Có thể nói, những câu văn này tác giả đã khắc họa hình ảnh người nông dân bằng bút pháp tả thực với những chi tiết chọn lọc tinh tế mang tính khái quát cao.
Ở những câu thơ trên, không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Đình Chiểu nhắc lại nguồn gốc của người nông dân nghĩa sĩ. “Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ…chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Nếu là đoạn thơ trước, tác giả giúp cho người đọc thấy rõ đôi nét về họ, những con người làm ăn, toan lo nghèo khó với tấm lòng cảm thông sâu sắc của cụ Đồ Chiểu thì ở những đoạn thơ này tác giả nhắc lại nguồn gốc của họ, những người là “dân ấp dân lân” những người không có 1 chút của cải trong tay, nhưng họ có 1 thứ lớn hơn và đáng trân trọng hơn đó chính là tấm lòng “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”.  Và như vậy “Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn, chín chục trận binh thư , không chờ bày bố.” chính vì thế, họ vào trận với vẻ đẹp mộc mạc, giản dị và không kém “chất” anh hùng bởi tấm lòng mến nghĩa, coi thường khó khăn, thiếu thốn.
Trạng bị của họ vào trận không phải là những vũ khí tối tân mà họ vào trận với



“…một manh áo vải…
…một ngọn tầm vông…
…là hỏa mai đánh bằng rơm con cúi…
…là gươm đeo làm bằng lưỡi dao phay…”



Những hình ảnh liệt kê với sực gợi tả rất cao. Đây là những cái dụng cụ nghèo nàn, thô sơ trong cuộc sống lao động hằng ngày đã trở thành vũ khí để nghĩa quân đánh giặc.


Tiếp đến là hình tượng của những người anh hùng được khắc nổi trên nền 1 trận công đồn đầy khí thể tiến công:


“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục; đạp rào lướt tới, coi
giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa
xông vào, liều mình như chẳng có .
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”


Nếu như những đoạn văn trước, giọng điệu trầm lắng trong cái sự hồi tưởng lại nguồn gốc của người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc thì ở đoạn văn này được nói với một giọng điệu hào hùng, sảng khoái. Với những động từ mạnh như: đạp, lướt, xô, xông, liều, đâm, chém,…Kết hợp với những hình ảnh diễn tả tinh thần tràn đầy khí thế và sức mạnh: đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, đâm ngang chém ngược…
Phép đối được sử dụng đậm đặc, triệt để: đối từ (lướt tới/ xông vào, đạn nhỏ/ đạn to…), đối ý (ta: manh áo vải, ngọn tầm vông/ địch: đạn nhỏ đạn to, tàu sắt tàu đồng, vũ khí thô sơ >< chiến thắng lớn)…Không chỉ thế, nhịp điệu của văn còn rất mạnh mà lại nhanh, dứt khoát, sôi nổi, góp phần tái hiện trận công đồn của nghĩa sĩ Cần Giuộc rất khẩn trương và tràn đầy quyết liệt, sôi động, đầy hào hứng.


Bằng những nghệ thuật đặc sắc, tác giả đã tạc lên 1 bức tượng đài nghệ thuật về vẻ đẹp hiên ngang, bất khuất, kiên cường của người nông dân Nam Bộ trong buổi đầu kháng Pháp. Với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, Nguyễn Đình Chiểu đã phát hiện và gợi ra phẩm chất cao quý tiềm ẩn sau manh áo vải, sau cuộc đời lam lũ, vất vả của người nông dân chính là lòng yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc của họ.






Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1)

- Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822 mất năm 1888, tự Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Ông sinh ra ở làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay là Tp.HCM. Quê cha ở Thừa Thiên – Huế, quê mẹ ở Gia Định. Và ông xuất thân trong 1 gia đình nhà Nho, cha của ông tên là Nguyễn Đình Huy, mẹ của ông là Trương Thị Thiệt (vợ thứ).  Cũng vì được sinh ra trong 1 gia đình nhà Nho, cho nên Nguyễn Đình Chiểu sớm được hưởng nền giáo dục Nho học, bản thân ông đã được cha mẹ giáo dục cho 1 lối sống nhân nghĩa yêu chuộng những con người kém may mắn hơn mình. Và cũng do ông đã trải qua nhiều biến cố đó sẽ có những ảnh hưởng lớn đến sáng tác thơ, văn của ông.

- 1843, ông thi đỗ tú tài và cũng chính trong thời điểm này ông được 1 nhà họ Võ hứa hôn
1846 ra Huế để học nhưng phải bỏ đi để về quê chịu tang mẹ. Trên đường đi về nhà, do quá thương mẹ mình mà khóc, thêm thời tiết nắng gió với bản thân ông không có được sức khỏe tốt nên ông đã bị mù. Sau đó ông trở về quê, ông mở lớp dạy học, bốc thuốc cho dân nghèo, được nhân dân gọi với cái tên thân mật đó là cụ Đồ Chiểu.

- Cứ như thế, nỗi đau cộng dồn lại, những nỗi đau mất mẹ, nỗi đau do bị nhà họ Võ từ hôn, nỗi đau bị mù tưởng chừng như đã gục ngã. Thế nhưng với ý chí và nghị lực, ông đã vượt lên hoàn cảnh, trở thành con người có tấm gương sáng để mọi người noi theo.
Tiếp đến là năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, đến 1859 thực dân Pháp tấn công vào Gia Định. Lúc này không chỉ có Nguyễn Đình Chiểu mà còn có những người dân khác phải chịu chung biến cố này. Cũng chính lúc này, bọn thực dân pháp ra sức dụ dỗ Nguyễn Đình Chiểu trở thành tay sai cho chúng, nhưng ông khảng khái khước từ, giữ trọn thủy chung với dân với nước đến hơi thở cuối cùng. Không chỉ thế, ông còn dùng ngòi bút của mình để chống lại quân xâm lược, góp phần trong cuộc đấu tranh chống lại bọn pháp.

- 3/7/1888 thì Nguyễn Đình Chiểu đã mất tại Đa Tri, Bến Tre. Có thể nói, sự ra đi của Nguyễn Đình Chiểu là 1 sự mất mát lớn đối với lịch sử và đối với nhân dân. Bởi vì đó là sự ra đi của 1 con người suốt đời hết lòng cống hiến cho dân cho nước, 1 con người viết văn để mà trở đạo, để sửa đời và để dạy người.

- Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là 1 tấm gương sáng, cao đẹp về nhân cách, nghị lực và ý chí về lòng yêu nước, thương dân và có thái  độ bất khuất trước kẻ thù.

- Đến với những sáng tác của ông, sáng tác của ông có thể được chia ra làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Trước khi thực dân Pháp xâm lược (Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, dùng để truyền bá đạo lí làm người).

Giai đoạn 2: Sau khi thực dân Pháp xâm lược (Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định,…dùng để thể hiện tinh thần yêu nước và chống Pháp).

Nghệ thuật thơ văn: Bút pháp trữ tình, ngôn ngữ hình ảnh nhân vật mang đậm sắc thái Nam Bộ, lời nói nhân vật mộc mạc, bình dị và có 1 tâm hồn nồng nhiệt.
Lối thơ thiên về kể mang màu sắc diễn xướng phổ biến trong văn học dân gian Nam Bộ.