những nhà thơ xưa hiếm có người viết về vợ mình, mà viết về vợ khi còn sống thì càng hiếm hơn. nhưng tế xương lại khác ông nhìn nhận được bao khổ cực và nhọc nhằn của vợ trong cuộc sống mưu sinh hàng ngày và cảm thông cho vợ. để an ủi vợ ông đã gửi gắm nỗi lòng mình vào thơ. nổi bật là bài thương vợ rất hay và cảm động.
Mở đầu bài thơ, là lời giới thiệu mộc mạc, chân thành về cảnh đời vất vả của bà Tú.
" Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng .”
Hình ảnh bà Tú hiện lên với bao sự nhọc nhằn, bươn chải việc bán buôn cùng thời gian. Đã được, Tú Xương khái quát rõ nét qua hai câu đề. Từ “quanh năm” diễn tả sự liên tiếp về thời gian , từ ngày này sang ngày khác , tháng này qua tháng khác và năm nào cũng vậy , bất kể mưa nắng , sớm trưa . Trong khoảng thời gian không ngơi nghỉ đó , bà Tú phải miệt mài với công việc “buôn bán”, một mình gánh vác trên vai nuôi gia đình chăm chỉ làm ăn kiếm tiền nuôi chồng con mà không hề than trách một lời nào.
“Mom sông” là phần
đất ở bờ sông nhô ra phía dòng sông, nơi người làng chài thường hay tụ tập mua
bán. Không quán xá hay cửa hiệu gì cả chỗ mà bà tú ngày nào cũng buôn bán là
mom sông, nơi người làng chài thường hay tụ tập buôn bán nhưng nó có thể
trượt sụt bất cứ lúc nào vì vậy nó lại thể hiện thêm sự chênh vênh nguy hiểm của
công việc mà bà Tú phải làm quanh năm suốt tháng. Mới vào câu thơ đầu thôi mà
tác giả đã thể hiện rõ cái thời gian, không gian và đan xen trong đó là cảm xúc
của mình để nói về hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ và tất bật của bà Tú.
Câu thơ thứ hai nêu lên nguyên nhân sự vất vả của bà Tú . Bà phải gánh
trên vai một trách nhiệm nặng nề “ nuôi đủ năm con với một chồng” . Phải chăm
sóc , nuôi nấng một đàn con đông đảo năm đứa đã đủ cực nhọc lắm rồi . Vậy mà bà
còn phải nuôi thêm cả ông chồng. Câu
thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông
con, người chồng đang phải ở nhà ăn
của vợ. Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người
vợ tần tảo, đảm đang của mình.
“Lặn lội thân cò khi
quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò sông.”
Tú xương đã dùng một hình tượng quen thuộc để nói lên sự
chăm chỉ của người vợ đó là hình ảnh con cò,một hình ảnh thân thuộc thường hay
sử dụng trong văn chương. Đây là cách nói ví von ,ông không đem ra mà so sánh
mà để nói lên sự chăm chỉ sáng ngày của người vợ ông hết mực yêu thương. Một tấm
thân yếu đuối mà phải chịu cảnh dãi nắng dầm sương không khi nào quản ngại khó
khăn, còn phải lặn lội cả sớm trưa. Theo nghĩa đen thì cũng đã gợi lên sự khó
khăn mệt nhọc của bà.
Từ quãng vắng làm nổi lên sự hiu quạnh, lẻ loi của bà không biết bấu víu nương tựa
vào đâu. “Eo sèo mặt nước buổi
đò đông” cho thấy sự vật lộn với công việc trong
cuộc sống mưu sinh của bà.
“Eo sèo” là từ láy tượng thanh chỉ sự rầy rà bằng lời đòi, gọi
liên tiếp dai dẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước”
lúc “đò đông”. Một cuộc đời “Lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật
đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo bà Tú kiếm
được “Nuôi đủ năm con với một chồng” phải “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành
giật, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn.
Hai câu
thơ này đã làm nổi bật sự vất vả, gian truân của bà Tú, không chỉ thế mà còn gợi
lên hình ảnh biết bao người mẹ, người vợ, người chị Việt Nam.
Câu thơ miêu tả hết sức trữ tình và sâu lắng khiến cho người
nghe cũng cảm thấy xót xa tội nghiệp.
“Một duyên hai nợ, âu đành
phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công”
Ở đây ông Tú đã chuyển từ cái nhìn bên ngoài của mình vào hẳn
bên trong cảm nhận và suy nghĩ của vợ. Nhà thơ dùng nghệ thuật đối , các khẩu
ngữ và những thành ngữ dân gian “ một duyên hai nợ” , “năm nắng mười mưa” , “
âu đành” , “dám quản” để bộc lộ nỗi lòng ấy .
Duyên và nợ là hai khái niệm đối lập nhau . Theo cách hiểu
dân gian , duyên là điều tốt
đẹp , là sự hòa hợp tự nhiên , còn nợ là gánh nặng , là trách nhiệm mà con người
ta bị vướng mắc phải . Duyên là sự may mắn , còn nợ là sự rủi ro. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là
câu thơ đầy sự trĩu nặng xót xa, thương cảm và đầy dằn vặt mà Tú Xương dành cho
vợ của mình. Câu thơ còn thể hiện ý nghĩa về cuộc đời của bà Tú duyên thì chỉ
có một nhưng nợ thì đến hai.
Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất
vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình.
“Cha mẹ thói đời
ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Tú
Xương đã mượn lời vợ mình để "chưởi" cả một cái xã hội với bao thói đời
ăn ở bạc, bất công vì những người có tài như ông mà trở thành người thừa trong
xã hội, Ông còn chưởi chính mình vì ông cho rằng ông là người chồng hờ hững, vô
tích sự.
Trong 2 câu thơ kết này, ông đã dám thẳng thắn bộc lộ, nói
ra khuyết điểm, tự chửi chính bản thân mình, việc này khiến cho cảm xúc của ông
được đấy lên cao trào với tư cách là 1 người chồng. Nhưng đồng thời nó cũng thể
hiện ra 1 vẻ sáng ngời, 1 nhân cách cao xa nhất là trong hoàn cảnh xã hội đương
thời. Bởi lẽ ở cái xã hội phong kiến, trọng nam khinh nữ ấy người phụ nữ thường
chỉ có 1 chiều cho đi mà ít khi nhận lại. Phải phụng sự, phục tùng chồng con của
mình, ít có ai nhận được tâm long tri ân, thấu hiểu như Tú Xương.
Với tình cảm thương yêu, quý trọng, tác
giả đã ghi lại một cách xúc động, chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, già đức
hi sinh. Thương vợ là bài thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình của Trần Tế Xương cảm
xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét